29 tháng 3 2013

LỤC ĐỊA THỨ BA, LỤC ĐỊA CUỐI CÙNG (Phần 1)



Cuốn sách Interpreter of Maladies được mình và anh Ngân Xuyên (Bút danh của Phạm Xuân Nguyên) dịch và Nhà xuất bản Lao động in cuối năm 2004. Thật tiếc khi những câu chuyện đẹp đẽ như vậy, giống số phận sách vở nói chung, nhanh chóng mất hút vào khoảng không. Bây giờ chẳng thể mua cuốn đó ở đâu, có chăng là tìm trong một số thư viện. Mình vốn muốn post lại nhiều những thứ đã dịch từ lâu, chỉ để cho mình và một vài người thân thiết, nhưng cứ lười, vả lại, qua mấy đời máy tính, giờ chẳng còn bản mềm, phải ngồi đánh máy lại. Một hôm cô bạn thân hỏi truyện ngắn “Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng”, một truyện ngắn trong tập đó, chắc để gửi cho một người vẫn đang tha hương. Cô bạn đã giúp mình có động lực đánh máy lại, quyết tâm đưa lên đây những câu chuyện mình đã dịch từ lâu. Tập truyện sẽ được đưa lên không theo thứ tự như trong sách in mà chỉ là phút ngẫu hứng của người dịch. Tuy là truyện ngắn nhưng mỗi truyện đều khá dài, sẽ được post thành 2 hoặc 3 entries. Tặng mình, tặng nhiều những người bạn mình đang sống cuộc sống tha hương, tuy mọi việc đều tốt đẹp mà không tránh khỏi nhiều giây phút chạnh lòng nhớ cố hương.

Lời giới thiệu:
Jhumpa Lahiri sinh tại London, gốc người Bengal. Cô lớn lên tại Rhode Island, Hoa Kỳ. Hiện cô sinh sống tại New York. Truyện ngắn của cô xuất hiện trên nhiều tạp chí khác nhau. Tập truyện “Người dịch bệnh” (Interpreter of Maladies) của cô giành giải thưởng Pulitzer năm 2000 cho thể loại truyện hư cấu, giải thưởng cuốn sách đầu tay hay nhất của New York và giải thưởng PEN/Hemingway.
Những câu chuyện tuyệt vời của Jhumpa Lahiri kể về cuộc sống của những người Ấn Độ tha hương, về những người loay hoay giữa những phong tục nghiêm ngặt mà họ thừa hưởng và một thế giới mới đầy trở ngại mà họ phải đối đầu hàng ngày. Dù bối cảnh ở Boston hay ở Băng-gan, những câu chuyện tràn đầy tính hài hước và những yếu tố huyền ảo này không chỉ gần gũi với người xa xứ mà còn gần gũi với rất nhiều đối tượng khác.
Tác phẩm của Jhumpa Lahiri gắn liền với mọi mặt thường gặp của cuộc sống và cách nhìn các chi tiết rất tinh tế, sắc bén là một điểm nổi bật của cô (trích Lời nói đầu).

Lục địa thứ ba, lục địa cuối cùng (1)
Tôi rời Ấn Độ năm 1964 với một tấm bằng thương mại và một số tiền vào những ngày đó tương đương 10 đôla Mỹ. Suốt ba tuần tôi lênh đênh trên con tàu SS Roma, một tàu chở hàng lớn của Ý, trong một buồng hạng ba ngay sát đầu máy. Con tàu đã chở tôi xuyên qua suốt biển Ả Rập, biển Đỏ, Địa Trung Hải và cuối cùng cập bến nước Anh. Tôi sống ở phía Bắc Luân Đôn, khu Finsbury Park, trong một ngôi nhà toàn những người Băng-gan độc thân không một xu dính túi giống như chính tôi, tất cả đều phải chiến đấu để học tập và lập thân ở nước ngoài.
Tôi tham dự những buổi thuyết trình ở Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn và miệt mài học trong thư viện trường để có thể vượt qua các kỳ thi. Chúng tôi sống cùng nhau ba hoặc bốn người một phòng, dùng chung một buồng vệ sinh lạnh lẽo duy nhất và thay nhau nấu những nồi cari trứng mà sau đó chúng tôi ăn bốc trên một chiếc bàn phủ giấy báo. Ngoài công việc của mình chúng tôi chẳng có gì phải lo lắng nhiều. Vào những ngày cuối tuần, chúng tôi chân đất, mặc những chiếc quần pijama, uể oải đi lại, uống chè và hút thuốc Rothmans hay đi xem crikê ở sân vận động Lord. Có những ngày cuối tuần căn nhà chật đầy người Băng-gan, những người chúng tôi tự làm quen ở cửa hàng rau quả, trong tàu điện ngầm. Chúng tôi nấu thêm nhiều cari trứng, bật nhạc của Mukhesh trên chiếc đài quay đĩa hiệu Grendig và nhét bát đĩa bẩn vào bồn tắm. Thỉnh thoảng lại có ai đó trong ngôi nhà rời ra ngoài sống với người phụ nữ mà gia đình anh ta ở Calcutta đã quyết định chọn cho anh ta làm vợ. Năm 1969, khi tôi ba sáu tuổi, cuộc hôn nhân của chính tôi được thu xếp. Cũng vào khoảng thời gian đó, tôi nhận được lời mời làm một công việc chính thức ở Mỹ, phòng nghiệp vụ tại một thư viện ở MIT [Học viện Công nghệ Massachusettes]. Lương khá hậu hĩnh, đủ để chu cấp cho một gia đình và thêm nữa, tôi có vinh dự được một trường đại học danh tiếng thuê. Vậy là tôi làm thị thực và chuẩn bị cho chuyến viễn du xa hơn.
Lúc đó tôi đã có đủ tiền để đi máy bay. Đầu tiên tôi bay tới Calcutta để tham dự đám cưới của chính mình và một tuần sau tôi bay tới Boston để bắt đầu công việc mới. Trong suốt chuyến bay tôi đọc cuốn Sách hướng dẫn về Bắc Mỹ dành cho sinh viên, một cuốn sách giải trí tôi mua trước khi rời Luân Đôn với giá bảy siling sáu pen, trên đường Tottenham Court, vì dù rằng tôi không còn là sinh viên nhưng về ngân sách thì tôi cũng chẳng khác gì. Tôi phát hiện ra rằng người Mỹ lái xe bên phải đường chứ không lái bên trái. Họ gọi thang máy là “elevator” chứ không phải “lift”, đường điện thoại bận thì nói là “engaged” thay cho “busy”. “Bạn sẽ nhanh chóng nhận thấy nhịp điệu sống ở Bắc Mỹ khác hẳn với nhịp điệu sống ở Anh”, cuốn sách hướng dẫn viết. “Mỗi người đều cảm thấy cần phải đạt đến đỉnh cao. Đừng mong đợi  có những khoảng thời gian rảnh rỗi”. Trong khi chiếc máy bay lượn vòng phía trên cảng Boston, viên phi công thông báo một ngày lễ của đất nước: hai người Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng. Mấy hành khách vỗ tay. “Chúc mừng nước Mỹ!” một người hét lên. Bên hàng ghế đối diện tôi thấy một người phụ nữ làm dấu thánh.
Tôi ngủ đêm đầu tiên ở YMCA [Hội thanh niên Cơ đốc giáo], ở Quảng trường Trung tâm của Cambridge, một nơi nghỉ rẻ tiền mà cuốn sách hướng dẫn mách bảo. Từ đó tôi có thể đi bộ đến MIT và chỉ vài bước là đến bưu điện và siêu thị Purity Supreme. Trong phòng kê một giường đơn, một chiếc bàn. Trên tường là cây thánh giá nhỏ bằng gỗ. Tấm biển trên cửa thông báo tuyệt đối không được nấu nướng trong phòng. Ô cửa sổ trần trụi nhìn ra đại lộ Massachussets, một đường phố hai chiều lớn. Tiếng còi ô tô ầm ĩ kéo dài hết đợt này đến đợt khác. Còi báo nhấp nháy liên tục báo hiệu những ca cấp cứu, những đoàn xe buýt ầm ĩ lao qua, cửa sầm sầm mở ra rồi đóng lại. Cứ như vậy suốt cả đêm. Những âm thanh của đường phố luôn làm đầu tôi ong ong, đôi lúc đến đinh tai nhức óc. Tôi cảm thấy nó thấm rất sâu, vào tận xương tuỷ, như thể âm thanh đều đều, giận dữ của con tàu SS Roma. Nhưng ở đây không có boong tàu để lẩn tránh, không có đại dương xanh lấp lánh để tâm hồn tôi rung lên vì xúc động, không có những ngọn gió nhẹ giúp khuôn mặt tôi dịu đi, không có ai để trò chuyện cùng. Tôi quá mệt mỏi để có thể đi lại trong hành lang ảm đạm của YMCA trong chiếc quần pajama. Thay vào đó tôi ngồi bên bàn, nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, nhìn toà thị chính Cambridge và dãy những hàng quán nhỏ. Sáng hôm sau tôi đến trình diện tại nơi làm việc của mình ở thư viện Deway, một toà nhà màu be trông giống như cái pháo đài. Tôi đi mở một tài khoản ngân hàng, thuê một hộp thư, mua một chiếc bát và một thìa nhựa ở cửa hàng Woolworth – cửa hàng mang cái tên tôi biết từ khi còn ở Luân Đôn. Tôi đến siêu thị Purity Supreme, đi tới lui giữa các kệ hàng, chuyển đổi unsơ thành gram và so sánh giá cả với giá cả bên Anh. Cuối cùng tôi mua một hộp sữa bìa các tông nhỏ và một gói đồ ăn sẵn làm bằng bột ngũ cốc. Đó là bữa ăn đầu tiên của tôi ở Mỹ. Tôi ngồi bên bàn và ăn. Tôi thích món này hơn bánh hamburger hay bánh mì kẹp xúc xích, những lựa chọn duy nhất cho tôi ở tiệm cà phê trên đại lộ Massachusets. Ngoài ra, đến lúc đó tôi vẫn chưa có gì phải than vãn. Thậm chí cả cái việc vặt đi mua sữa cũng là điều mới mẻ với tôi: ở Luân Đôn sáng sáng người ta mang sữa đựng trong bình thuỷ tinh đến cho chúng tôi.

Trong vòng một tuần thì tôi đã tự điều chỉnh được bản thân ít nhiều. Tôi ăn đồ ăn sẵn bằng bột ngũ cốc và uống sữa, cả sáng và tối đều vậy. Tôi mua thêm vài quả chuối để thay đổi, dùng thìa xắt từng lát mỏng vào bát. Thêm vào đó tôi còn mua chè gói và một chiếc bình thót cổ mà người bán hàng ở cửa hàng Woolworth gọi là phích (anh ta nói với tôi rằng trước kia kiểu bình thót cổ như vậy được dùng để đựng rượu uýt ki, một thứ mà tôi cũng chưa bao giờ nếm). Bằng giá một cốc chè trong quán cà phê, buổi sáng trên đường đi đến chỗ làm tôi đổ nước sôi đầy bình và có được bốn cốc chè để uống trong ngày. Tôi mua một hộp sữa to hơn và bắt chước một cư dân khác của YMCA để nó ở chỗ có bóng mát trên bệ cửa sổ. Để giết thời gian, tối tối tôi đọc báo Quả địa cầu Boston ở dưới tầng, trong một căn phòng rộng rãi với những ô cửa kính bẩn thỉu. Tôi đọc hết mọi bài báo và những phần quảng cáo để làm quen với cuộc sống và khi mỏi mắt thì tôi đi ngủ. Chỉ có điều tôi ngủ không ngon. Đêm nào tôi cũng phải để mở cửa sổ vì đó là nguồn cung cấp không khí duy nhất trong căn phòng ngột ngạt, nhưng khi đó tiếng động quả là không thể chịu đựng nổi. Tôi hay nằm trên giường, lấy ngón tay bịt chặt tai, nhưng khi vừa mơ màng thiếp đi thì những ngón tay tôi lỏng ra và luồng âm thanh ầm ĩ lại đánh thức tôi dậy. Những chiếc lông chim bồ câu thường bay xuống bệ cửa sổ, và một tối, khi rót sữa vào món đồ ăn bằng bột ngũ cốc tôi phát hiện ra sữa đã chua. Dù vậy tôi cũng quyết định ở lại YMCA sáu tuần nữa, cho đến khi vợ tôi làm xong hộ chiếu và thị thực. Khi nào vợ tôi sang thì tôi sẽ phải thuê một nơi ở tử tế. Thỉng thoảng tôi lại nghiên cứu mục nhà cửa trên báo hay dừng lại ở phòng nhà đất của MIT vào lúc nghỉ trưa để xem có gì phù hợp với túi tiền của mình. Chính là bằng cách đó mà tôi phát hiện ra một căn phòng cần cho thuê ngay lập tức, trong ngôi nhà trên một con phố yên tĩnh, giá tám đôla một tuần. Tôi ghi ngay số điện thoại, tìm kiếm đồng xu cần thiết trong số những đồng tiền vẫn còn xa lạ đối với tôi, nhỏ và nhẹ hơn đồng siling nhưng nặng và sáng hơn đồng paisa [đơn vị tiền của Ấn Độ] và gọi từ trạm điện thoại công cộng.
- Ai đấy? – một phụ nữ hỏi. Giọng bà ta lanh lảnh mạnh mẽ.
- Xin chào bà. Tôi gọi đến về việc căn phòng cho thuê.
- Harvard hay Viện?
- Xin lỗi. Cái gì ạ?
- Anh từ trường Đại học Harvard hay Viện?
Hiểu ra rằng Viện là nói tắt thay cho Học viện Công nghệ Massachusetts, tôi trả lời ngay:
- Tôi làm việc ở thư viện Deway, - tôi ngập ngừng rồi nói thêm, - ở Viện.
- Tôi chỉ cho các cậu trường Harvard hay Viện thuê nhà thôi.
- Vâng, thưa bà.
Bà ta cho tôi địa chỉ và hẹn gặp lúc 7h tối hôm đó. Tôi ra khỏi nhà nửa tiếng trước giờ hẹn, cuốn sách hướng dẫn trong túi, hơi thở thơm tho với nước súc miệng Listerine. Tôi đi dọc theo con phố đầy bóng cây, vuông góc với đại lộ Massachussets. Cỏ dại mọc lơ thơ giữa những viên gạch lát phần đường đi bộ. Dù trời nóng tôi vẫn mặc áo vét và đeo cà vạt, coi sự kiện này cũng quan trọng như bất kỳ một cuộc phỏng vấn nào khác; tôi chưa bao giờ sống trong nhà của một người nước ngoài. Ngôi nhà có một hàng rào lưới bao quanh, quét vôi trắng với đường trang trí màu nâu sẫm. Không giống như những ngôi nhà trát vữa đứng thành hàng, nơi tôi sống ở Luân Đôn, ngôi nhà này đứng hoàn toàn biệt lập, mái lợp gỗ. Một đám những cây đầu xuân phủ kín phía trước và hai bên ngôi nhà. Khi tôi bấm chuông, người phụ nữ lúc trước nói chuyện với tôi qua điện thoại hét lên dường như ngay phía bên kia cánh cửa:
- Xin chờ một phút!
Vài phút sau một bà cụ rất già và nhỏ bé mở cửa. Một đám tóc trắng như cước được sắp xếp giống như một chiếc túi nhỏ trên đầu bà ta. Trong khi tôi bước vào thì bà ta ngồi xuống chiếc ghế gỗ dài đặt bên dưới chân cầu thang hẹp trải thảm. Khi đã yên vị trên chiếc ghế, trong một vùng ánh sáng nhỏ, bà ta nhìn tôi chằm chằm với một sự tập trung hoàn toàn. Bà ta mặc một chiếc váy dài màu đen xoè ra giống như một cái lều cứng trên nền nhà, áo sơ mi hồ bột với những diềm đăng ten ở cổ và tay áo. Đôi bàn tay đặt trong lòng có những ngón tay dài, xanh xao, những khớp ngón tay phồng lên, móng tay cứng, màu vàng. Tuổi tác đã làm biến đổi đường nét của bà ta đến mức giờ đây bà ta gần giống như một người đàn ông với đôi mắt sắc sảo, teo lại và những đường nhăn nổi bật ở hai bên mũi. Đôi môi bà ta nứt nẻ và nhợt nhạt, gần như biến mất, lông mày cũng vậy. Trông bà ta thật dữ tợn.
- Khoá cửa lại! – bà ta ra lệnh. Bà ta hét lên dù rằng tôi chỉ đứng cách bà ta có vài bước chân. - Móc vào và bấm nút kia thật chặt! Đó là điều đầu tiên anh sẽ phải làm khi anh vào nhà, hiểu không?
Tôi khoá cửa ngôi nhà như bà ta bảo và quan sát. Bên cạnh chiếc ghế băng người đàn bà đang ngồi là một cái bàn nhỏ. Chân bàn, cũng giống như chân người đàn bà, được một tấm ren phủ kín hoàn toàn. Trên bàn là một chiếc đèn, đài bán dẫn, ví da có móc gài bằng bạc và điện thoại. Một cây gậy batoong phủ đầy bụi dựng cạnh bàn. Bên phải tôi là phòng khách với những giá sách và đồ gỗ tồi tàn cũ kỹ. Trong góc phòng là một chiếc đàn piano vĩ đại, trên nóc chất đầy giấy tờ. Chiếc ghế của cây đàn không thấy đâu cả, hình như đó là chiếc ghế người đàn bà đang ngồi. Ở một nơi nào đó trong ngôi nhà, đồng hồ ngân nga bảy tiếng.
- Anh là một người có kỷ luật, - người đàn bà tuyên bố. Tôi nghĩ anh cũng sẽ như vậy với căn phòng thuê.
- Tôi có giấy chứng nhận, thưa bà.
Trong túi áo vét của tôi có một giấy chứng nhận làm việc cho MIT, tôi mang theo người để chứng minh rằng tôi thực sự làm việc ở đó.
Bà ta chăm chăm nhìn vào tờ giấy rồi sau đó thận trọng đưa nó lại cho tôi, cầm nó trong tay như thể đó là một đĩa thức ăn đầy chứ không phải tờ giấy. Bà ta không đeo kính, và tôi tự hỏi không biết liệu bà có đọc được dòng nào trong đó không.
- Anh chàng cuối cùng lúc nào cũng muộn! Vẫn còn nợ tôi 8 đôla nữa chứ! Những thanh niên của Harvard đã không còn như trước kia! Chỉ có những thanh niên của Harvard và Viện ở trong ngôi nhà này. Viện giờ thế nào, chàng trai?
- Rất tốt ạ.
- Anh đã kiểm tra khoá chưa?
- Rồi ạ, thưa bà.
Bà ta lấy tay đập vào khoảng trống bên cạnh mình trên chiếc ghế và bảo tôi ngồi xuống. Bà ta im lặng trong giây lát. Rồi bà ta ngân nga, cứ như thể chỉ mình bà ta biết điều này:
- Có một lá cờ Mỹ trên mặt trăng.
- Vâng, thưa bà.
Cho đến tận lúc này tôi vẫn chẳng mấy để ý đến cuộc đổ bộ lên mặt trăng. Tất nhiên báo chí viết nhiều về chuyện này, rất nhiều, hết bài này đến bài khác. Những phi công vũ trụ đã đặt chân lên bờ biển Thanh Bình, vượt xa bất cứ ai trong lịch sử nền văn minh, tôi đọc thấy như vậy. Trong vòng tiếng giờ đồng hồ họ thám hiểm bề mặt mặt trăng. Họ thu thập mẫu đã, miêu tả khung cảnh xung quanh (một vẻ hoang vu lộng lẫy, theo như lời một nhà du hành vũ trụ), nói chuyện qua điện thoại với tổng thống và cắm một lá cờ lên mặt trăng. Chuyến du hành được chào đón như thành tựu vĩ đại nhất của con người. Tôi đã nhìn thấy những bức ảnh to kín cả trang báo trên tờ Thế giới, bức ảnh các nhà du hành vũ trụ trong những bộ quần áo phồng căng. Tôi đã đọc về việc những ai ở Boston đang làm gì vào giây phút các nhà du hành vũ trụ đặt chân xuống mặt trăng – một chiều Chủ Nhật. Một người đàn ông nói rằng lúc đó ông ta vừa lái một chiếc thuyền hơi vừa dí đài vào tai; một phụ nữ nói lúc đó bà đang nướng bánh cho các cháu.
Người đàn bà gào lên:
- Một lá cờ trên mặt trăng, chàng trai ạ! Tôi nghe thấy trên đài! Điều đó thật tuyệt, đúng không?
- Vâng, thưa bà.
Nhưng bà ta không thoả mãn với câu trả lời của tôi. Thay vào đó bà ta ra lệnh:
- Hãy nói “Tuyệt vời!”
Lời yêu cầu làm tôi cảm thấy vừa lúng túng vừa bị lăng mạ. Nó làm tôi nhớ lại cách người ta dạy tôi bảng cửu chương khi tôi còn là đứa trẻ. Chúng tôi ngồi bắt chéo chân, không có giày và bút chì, trên nền ngôi trường học có mỗi một phòng tên là Tollygunge và nhắc lại lời thầy giáo. Lời yêu cầu đó cũng làm tôi nhớ lại đám cưới, khi tôi đã nhắc lại theo vị mục sư những vần thơ tiếng Phạn mà tôi hầu như không hiểu gì, những cái đã gắn tôi vào với vợ mình. Tôi im lặng.
- Hãy nói “Tuyệt vời!”, - người đàn bà lại gào lên.
- Tuyệt vời, - tôi lắp bắp.
Tôi phải nhắc lại lần thứ hai để bà ta có thể nghe thấy. Bản chất tôi là người nói năng nhỏ nhẹ và tôi đặc biệt lúng túng khi phải cao giọng với một người đàn bà nhiều tuổi vừa mới gặp nhưng bà ta dường như không cảm thấy bị mất lòng. Dù sao câu trả lời cũng làm vừa lòng bà ta và mệnh lệnh tiếp theo là:
- Đi xem phòng!
Tôi đứng dậy và leo lên cầu thang hẹp trải thảm. Có năm cánh cửa, hai cánh cửa mỗi bên hành lang cũng hẹp như cầu thang và một cánh cửa nữa ở phía cuối hành lang. Chỉ một cánh cửa hé mở. Trong phòng kê một chiếc giường đôi, một tấm thảm màu nâu hình ôvan, bồn rửa với những ống nước lộ ra và chiếc tủ com mốt. Một cánh cửa sơn trắng là cửa tủ quần áo, một cánh cửa khác dẫn vào toilet và phòng tắm. Giấy dán tường màu xám có những dải trắng ngà. Cửa sổ đang mở, tấm rèm ren rung rinh trong làn gió nhẹ. Tôi nâng tấm rèm lên để quan sát khung cảnh: một sân sau nhỏ với mấy cây ăn quả và những dây phơi quần áo. Tôi cảm thấy thoả mãn. Từ dưới chân cầu thang tôi nghe người đàn bà hỏi:
- Cậu quyết định thế nào?
Khi tôi quay lại căn phòng nhỏ đó và trả lời, bà ta cầm chiếc ví da lên khỏi mặt bàn, mở khoá, lục lọi và lấy ra một chiếc chìa khoá treo trên vòng sắt mỏng manh. Bà ta thông báo với tôi rằng bếp nằm ở phía sau, đi qua phòng khách là tới. Tôi được thoải mái sử dụng bếp chừng nào tôi biết giữ gìn trật tự ngăn nắp. Ga trải giường và khăn mặt bà ta sẽ cung cấp nhưng giữ chúng sạch sẽ là nhiệm vụ của tôi. Tiền nhà trả vào sáng thứ Sáu hàng tuần, đặt ở mép bàn, bên trên những phím đàn piano.
- Và không được phép có phụ nữ đến thăm!
- Tôi đã có vợ, thưa bà, - đây là lần đầu tiên tôi tuyên bố điều này với một ai đó.
Nhưng bà ta không nghe thấy.
- Không được cho phụ nữ đến thăm đâu đấy, - bà ta khăng khăng. Bà ta giới thiệu mình là Croft.
(Còn nữa)

2 nhận xét:

  1. Cảm ơn Tuyêt Anh .Phải cho chị dọc dài dài chứ mới đuọc tý tẹo dã ngắt mat rồi túc anh ách .chị bắt đầu thích thì lại hết.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chị Hoa ơi, em đăng tiếp ngay đây ạ, hì hì. Sợ mọi người đọc liền một bài sẽ mệt nên em cắt ra thành các entry khác nhau đấy ạ.
      Chúc chị cuối tuần vui vẻ.

      Xóa