Mình có vinh dự được biết Jean Michaud, tác giả bài viết "Lịch sử tóm tắt Sapa", một nhà nghiên cứu dân tộc học đã trở nên thân thiết với nhiều người Sapa, với bố mẹ mình. Năm 2017, khi bố mình ốm nặng ông còn ghé qua thăm, khi đó đã nghĩ là chia tay lần cuối. Lần này, cơ duyên lại đến để mình dịch bài viết của ông. Lần đầu tiên mình được đọc về lịch sử Sapa viết kỹ và sâu đến thế. Cảm ơn ông Michaud. Bài viết của ông làm mình hiểu Sapa thêm nhiều, và càng thương nhớ biết bao Sapa của mình những ngày thơ ấu. Đoạn dưới đây chỉ là một đoạn trích (3 trang) trong bài viết gần 30 trang của ông.
[Sapa trong thời gian] Chiến tranh Pháp - Việt
.... Không nghi ngờ gì nữa, Chapa nằm trên tuyến đường của quân đội
Nhật Bản và Trung Quốc, những đội quân đã băng qua khu vực này vào năm 1945 và
1946, và sẽ rất thú vị nếu biết thêm về tác động của việc này. Vào cuối thời gian
Chiến tranh thế giới thứ hai, người Pháp không ngay lập tức trở lại thuộc địa
Đông Dương. Quân đồng minh, khi biết người Nhật đã đứng vững ở Đông Dương, đặc
biệt kể từ ngày diễn ra cuộc nổi dậy chớp nhoáng vào tháng Ba năm 1945 khi
chính quyền thực dân Pháp bị lật đổ, đã đồng ý cho phép người Hoa cộng hòa, đồng
minh của họ, tiến vào Bắc Kỳ qua phía Bắc để giải giáp lực lượng người Nhật chiếm
đóng ở đó, trong khi người Anh giải quyết vấn đề ở miền Nam. Chỉ một năm sau,
cuối cùng họ sẽ quay trở lại Vân Nam, điểm xuất phát của họ. Trong năm này, liệu
họ có chiếm đóng Chapa và tận dụng các tòa nhà của nó để thoải mái dàn xếp chỗ ở
cho quân đội của mình không? Rất có thể đã xảy ra như vậy và trong trường hợp
đó, không chắc các công dân Pháp muốn ở lại nơi có những vị khách đáng xấu hổ
này. Đặc biệt là quân đội thuộc địa thường trực của trạm, có vai trò đảm bảo an
ninh cho cư dân, chắc chắn đã bị Trung Quốc tước vũ khí vì họ được coi là đồng
minh với kẻ thù bại trận.
Năm 1946, chiến tranh
bắt đầu giữa Pháp, nước đã một lần nữa đặt chân lên thuộc địa của mình và tái
vũ trang quân đội, và Việt Minh, lực lượng đã tuyên bố độc lập cho miền Bắc Việt
Nam một năm trước đó. Có khả năng giao thông dân sự đến Chapa đã bị hạn chế, thậm
chí bị gián đoạn, đặc biệt là do sự vắng mặt - người ta tin là tạm thời - của
quân đội tại chỗ. Đó là cơ hội mà những người theo chủ nghĩa dân tộc và đảng cộng
sản ở Chapa đang chờ đợi. Trong những tháng đầu năm 1947, tận dụng sự vắng mặt
của quân đội thuộc địa, một bộ phận người dân Việt Nam đã vận động hưởng ứng lời
kêu gọi kháng chiến của Hồ Chí Minh và gây thiệt hại nặng nề nhất có thể cho
các công trình kiến trúc của Pháp ở Chapa. Mong muốn phá hủy lớn đến mức gần
như tất cả các tòa nhà bằng đá đều bị tấn công và lục soát. Không có đủ thuốc nổ
để tùy ý sử dụng, họ phóng hỏa đốt các công trình kiến trúc bằng gỗ. Tất cả
các vị trí chiến lược sau đây sẽ bị đốt phá, cho dù đó là do nó có khả năng
cung cấp nơi trú ẩn cho quân đội, chẳng hạn như trạm điều dưỡng, tu viện Tả
Phìn và các biệt thự lớn, hay vì vị trí chiến lược của chúng, chẳng hạn như trại
quân sự, hoặc một lần nữa, do tầm quan trọng về hậu cần của nó như khu liên hợp
thủy điện tại Cat-Cat. Trong vòng vài tuần, con người đã hoàn tất sự phá hủy, dẫn
đến việc gần như xóa sổ hoàn toàn di sản kiến trúc thuộc địa của thị trấn. Một
sự phá hủy tàn bạo và là khởi đầu của sự kết thúc.
Quân đội Pháp tái chiếm
Chapa cũng vào cuối năm đó (1947) và, nhận thấy tình trạng phá hủy của thị trấn,
đuổi hầu hết cư dân Việt Nam và người Hoa cũ ra khỏi đó. Người ta tin rằng chỉ
có ba gia đình người Kinh và một số ít người Hoa được ở lại. Cuộc di cư này,
sau khi địa điểm đã bị tàn phá, đánh dấu sự kết thúc của cộng đồng dân sự ở Chapa
và báo trước sự sụp đổ của bức màn. Nhưng một màn vẫn được diễn. Chúng ta sẽ
không ngạc nhiên khi biết rằng một trong những người cuối cùng, có lẽ là người
cuối cùng, thường dân châu Âu rời Chapa là cha xứ của thị trấn, Jean
Idiart-Alhor. Ra đi có lẽ không phải là từ thích hợp… Khi sự thận trọng có thể là
yêu cầu sơ tán khỏi khu vực này, nơi vốn đã vắng bóng dân thường và đã trở
thành hiện trường của một cuộc triển khai quân sự, và có thể, cả các cuộc giao
tranh, ông chọn ở lại với những người dân miền núi đã được cải đạo của mình và
theo đuổi sứ mệnh của mình theo truyền thống của các nhà Truyền giáo hải ngoại.
Ông sẽ trả giá cho lựa chọn này bằng mạng sống của mình. Vào
tháng Năm năm 1948 - các nguồn tin không thống nhất về ngày cụ thể - trong khi
cử hành thánh lễ buổi sáng, có lẽ chỉ có một mình, ông bị sát hại, sau đó bị chặt
đầu bởi một trong những người cải đạo của ông, cũng là một công giáo Việt Nam.
Lời giải thích về động cơ của vụ giết người này không thống nhất. Đối với Hội
Truyền giáo hải ngoại Paris, nơi từ đó ông ra đi, Idiart-Alhor chính thức được
coi là nạn nhân của đảng phái Việt Minh và đã phải trả cái giá của người tử vì
đạo vì lòng nhiệt thành truyền giáo. Nhưng ở Sapa tin đồn phổ biến cho thấy rằng
ông gánh chịu hậu quả của chủ nghĩa độc đoán liên quan đến người trợ lý của ông,
người này có quan hệ tình cảm với một người nội trú trẻ tuổi ở tu viện Tả Phìn
mà ông không đồng ý. Vị linh mục đã nhốt chàng trai trẻ một thời gian để cố gắng
chấm dứt mối quan hệ này. Được giải thoát khỏi cảnh giam giữ, sự báo thù đã dẫn
dắt bàn tay kẻ giết người, mà sau đó được cho là đã bỏ trốn sống trong bí mật,
nơi hành động của anh ta khiến anh ta được tôn trọng ở mức độ nhất định. Cha Idiart-Alhor
được chôn cất gần giám mục của mình, phía sau nhà thờ, và đó là nơi vẫn có thể
nhìn thấy ngôi mộ của hai nhà truyền giáo, bị bỏ quên và phủ đầy bụi rậm vào
năm 1997. Năm sau, 1998, hài cốt của hai người đã được được cộng đồng Công giáo
hồi sinh tại địa phương bốc lên và đặt vào một lăng mộ được xây dựng cho dịp
này và ngày nay cách địa điểm chôn cất họ ban đầu vài bước chân. Nếu tên của
Cha Idiart-Alhor được ghi rõ trên văn bia của vị linh mục bị sát hại, thì
Ramond, ngược lại, được gọi là "Cha Lộc", từ tên tiếng Việt của ông
có nghĩa là "tài sản". Về phần kẻ sát nhân, có tin đồn rằng cuối cùng
anh ta cũng thành công trong việc kết hôn với tình yêu của mình…
Vào cuối năm 1950, Việt
Minh chiếm được Chapa và các vùng phụ cận từ tay quân Pháp. Một yếu tố đáng kể
trong cuộc tấn công bất ngờ của Việt Minh lên khu vực tiền tuyến vào thời điểm
đặc biệt này là chiến thắng của lực lượng cộng sản ở Trung Quốc. Một đồng minh
quân sự có tầm quan trọng cách vài km về phía Bắc đã góp phần lật đổ cán cân lực
lượng trong khu vực và quân Pháp rút lui.
Tuy nhiên, về sự tàn
phá, vẫn còn nhiều điều nữa sắp xảy ra. Nhận thấy khả năng chiếm lại Chapa giảm
xuống khi Việt Minh đang trụ vững dần ở vùng núi phía trên Bắc Kỳ, Bộ chỉ huy
Pháp quyết định phá hủy nhiều nhất có thể những gì còn sót lại của các tòa nhà
ban đầu, mà một số trong số đó đã bị chiếm đóng và khôi phục lại bởi quân của
Tướng Giáp. Người ta ra lệnh cho lực lượng không quân ném bom Chapa. Những cư
dân miền núi lớn tuổi trong vùng nhớ rất rõ sự kiện này, được cho là xảy ra vào
khoảng năm 1952. Bản thân cộng sản Việt Nam khi đó không có lực lượng không
quân, cuộc đột kích này của Pháp đã tác động lớn đến họ vì một cảnh tượng như vậy
rất hiếm khi xảy ra. Các nhân chứng chứng thực rằng những vụ đánh bom chỉ giới
hạn ở các tòa nhà của những người định cư và không chạm đến các ngôi làng lân cận.
Hơn nữa, có thể dễ dàng đoán được những tòa nhà nào không bị động đến bởi các vụ
đánh bom: đơn giản là những tòa nhà có cấu trúc bằng đá mỏ vẫn đứng vững. Do
đó, chúng ta có thể lưu ý rằng trung tâm thủy điện ở Cát Cát và tu viện Tả Phìn
chẳng hạn, không hề bị động đến. Ngược lại, các tòa nhà mà ngày nay đã hoàn
toàn bị san bằng như Hôtel de la Résidence Supérieure và khu phức hợp điều
dưỡng có khả năng là mục tiêu đặc biệt.