Ngày lễ hội
09:58 | 03/06/2008
Hanan Al Shaykh sinh ra trong một gia đình
theo đạo Hồi ở Libăng. Bà lớn lên ở Beirut và sau đó học tại Cairo; là
một phóng viên có tiếng ở Beirut và
Cairo
. Bà lấy chồng là một kỹ sư người Libăng theo đạo Thiên chúa giáo và có
hai con. Từ năm 1982 do nội chiến nên họ chuyển tới sống ở
London
. Bà đã viết ba tiểu thuyết được hoan nghênh nồng nhiệt, Câu chuyện của
Zahra, Những người đàn bà của cát và Myrrh. Truyện Myrrh đã được thời
báo Publisher's Weekly chọn là một trong số 50 cuốn sách hay nhất năm
1992, và gần đây nhất bà xuất bản cuốn Những nữ học giả ở
Beirut
. Bà còn là tác giả của một số tập truyện ngắn.
Vị hôn phu của tôi – Farid – khăng
khăng đòi tôi đi cùng anh và gia đình tới thăm khu mộ gia đình vào hôm trước
ngày hội. Tôi thì luôn nghĩ rằng phong tục này chỉ thích hợp với những người
già hay những người cô đơn, những người cảm thấy thoải mái, dễ chịu khi ngồi
bên cạnh những người thân đã chết của họ. Họ nói rằng không có gì làm vơi đi sự
muộn phiền dễ dàng hơn là đi thăm nghĩa địa. Tôi không hề biết cha mẹ tôi đi
thăm mộ những người thân vào những ngày đặc biệt như thế nào, dù rằng đã có một
lần khi còn bé tôi đã cầu nguyện rất nhiệt thành, cầu xin cho một người họ hàng
xa trong gia đình mà tôi không biết chết để tôi có thể đi vào bên trong những
ngôi nhà mọi người xây nên xung quanh các ngôi mộ. Tôi đã cùng chị nấu bếp về
chơi nhà chị, một ngôi nhà nhìn ra nghĩa địa. Việc đó để lại dấu ấn mạnh mẽ
trong trí óc tôi. Và từ đó tôi hình dung những người chết sống trong những
buồng chôn đó giống như chúng ta sống trong các căn nhà, chỉ có điều khác chút
ít, có thể là giống như những pharaon chẳng hạn. Tôi nghĩ có lẽ họ đi lại không
gây nên tiếng động nào, hoặc là luôn luôn nằm trên giường.
Vào thời đó, những nhà mồ màu xỉn có
bia mộ chạm trổ rất xa lạ đối với tôi. Chúng thường nằm giữa vài cái cây tàn
lụi và những gò đất lẫn cát, nơi thuận tiện cho bọn trẻ lăn trườn. Tôi tin chắc
rằng bọn mèo, chó tôi nghe thấy là người canh những ngôi nhà mồ này.
Chúng tôi đến nhà cha mẹ Farid. Khi
tôi đang đáp lại câu thăm hỏi của bố anh thì mẹ anh bỗng xuất hiện và hỏi sao
tôi không đeo đôi hoa tai kim cương.
"Đeo hoa tai kim cương ra nghĩa
địa á?", tôi hỏi:
"Tại sao lại không!" – bà
gật đầu – "Tất cả mọi người đều ra đấy, mẹ biết vậy và họ sẽ nói, tại sao
anh lại chỉ tặng cô ấy nhẫn khi họ đã đính hôn".
Rồi sau đó bà biến đi và quay trở lại
với một chiếc trâm cài làm bằng đá quý. Bà đi thẳng lại chỗ tôi để cài nó lên
váy tôi. Tôi lùi một bước, cương quyết từ chối một cách khéo léo nhất mà tôi có
thể rằng tôi không thích đeo trâm. Quay người đi về phía phòng mình bà bực bội
nói, "Thôi được. Thế thì hãy đeo đôi hoa tai maccazit (1)của mẹ vậy. Nhưng
tất cả mọi người ai cũng sẽ nhận ra nó đấy".
Tôi nhìn Farid cầu xin và anh nói với
bà, "Con không thích cô ấy đeo bất cứ đồ trang sức nào cả".
Chỉ khi đó bà mới chú ý tới bó hoa
hồng trắng tôi đang giữ. Bà cầm nó từ tay tôi, ngửi và thốt lên
"Trời!" vẻ vô cùng mãn nguyện. Sau đó bà chạy đi cắm bó hoa vào bình
cùng vài bông hoa khác. Giá những bông hồng khiến tôi do dự nhưng chúng nhìn
tôi dường như đang chờ đợi tôi đánh giá vẻ đẹp cao quý của chúng. Tôi biện bạch
rằng tôi mua những bông hoa này không phải cho bản thân, và rằng từ nay trở đi
tôi sẽ không còn phải cảm thấy cắn rứt lương tâm mỗi khi mua cái gì đắt tiền
bởi tôi sắp lấy một người đàn ông giàu có. Farid nói với mẹ rằng hoa để mang ra
mộ. "Sao lại thế được? Hoa đẹp quá!", bà trả lời, vẫn tiếp tục cắm
hoa vào bình.
Farid ra hiệu cho tôi và tôi hiểu rằng không nên tiếp tục theo đuổi chuyện hoa hoét nữa. Tôi nhìn quanh, cố gắng che giấu sự lúng túng do hành động của bà gây nên và giả vờ quan tâm tới những chiếc làn đặt ở cửa: bánh nướng ngày lễ, bánh mỳ có hình dạng đặc biệt và quần áo, giày dép cũ.
Farid ra hiệu cho tôi và tôi hiểu rằng không nên tiếp tục theo đuổi chuyện hoa hoét nữa. Tôi nhìn quanh, cố gắng che giấu sự lúng túng do hành động của bà gây nên và giả vờ quan tâm tới những chiếc làn đặt ở cửa: bánh nướng ngày lễ, bánh mỳ có hình dạng đặc biệt và quần áo, giày dép cũ.
Tôi ngồi bên cạnh vị hôn phu của tôi
trên ghế trước, bố, mẹ anh và cô em gái mới lớn ngồi hàng ghế sau. Hôm trước
ngày hội cũng giống như ngày hội vậy, đường phố đông đúc, rộn ràng âm thanh và
náo động. Khắp nơi nghe có tiếng pháo. Tôi còn nhớ như in khi còn nhỏ chúng tôi
đi lang thang trên phố suốt những ngày này. Chúng tôi chơi đu, chúng tôi chạy
sầm sập vào nhà để dốc những hạt cát màu hồng nhạt ra khỏi túi quần và giày
ngay khi chúng tôi vào đến nhà. Mỗi năm khi sắp đến ngày hội, tôi luôn có cảm
giác như chúng tôi kỷ niệm ngày hội đó lần đầu tiên trong đời. Mẹ tôi chuẩn bị
làm bánh ngày lễ và mang nó tới lò nướng. Chúng tôi đứng đó chờ rất lâu, mắt
dán vào người thợ nướng bánh đến mức ông ta nhớ cái khay của chúng tôi. Ông
thường lấy nó ra muộn và bánh của chúng tôi cứng như đá. Dù vậy chúng tôi vẫn
ăn ngấu nghiến. Tôi nhớ chiếc túi đặc biệt tôi dành cho dịp lễ, đôi tất tôi vẫn
đi thậm chí giữa mùa hè, đôi giày sáng bóng, nơ buộc tóc. Chúng tôi thường đi
thăm tất cả họ hàng, cả những người sống ở xa và chỉ có họ rất xa. Chúng tôi gõ
cửa và chúc họ mọi điều tốt lành mà thực sự chẳng để ý bao nhiêu đến điều mình
nói. Chúng tôi biết rằng ông chú, mà ông luôn nói ông chẳng có thay đổi gì, vẫn
hay nằm và sẽ ngồi hàng thế kỷ trên bậc thềm nhà ông trước khi chúng tôi lao đi
chơi đu và trò chơi bán hàng, bàn luận lời đồn rằng năm nay lễ hội sẽ kéo dài
hơn một hai ngày cho bọn trẻ con vui chơi.
Mọi người dành cả ngày trước ngày hội
ngoài nghĩa địa. Bọn trẻ con mặc quần áo đẹp nhất. Từ loa công cộng, từ đài
phát ra tiếng đọc kinh Côran và các bài hát phổ biến. Có những người phụ nữ bán
lá chà là và lá cọ. Người này hút thuốc, người kia thưởng thức câu chuyện cười,
cằm họ rung lên vì cười, Đậu nấu, falafel (2), nước hoa quả, các loại quả ngâm
được bày bán trên lối vào nghĩa địa. Tôi nghĩ tôi sẽ trưng ra những lọ ngâm như
vậy ở chính nhà tôi.
Mẹ Farid dừng lại ngay khi gặp người bán hàng đầu tiên, một phụ nữ thiếu chiếc răng cửa và bà chọn khá nhiều cam, quýt, lá cọ. Bà mặc cả một lát rồi sau đó đưa bà ta một khoản tiền và bỏ đi. "Thưa bà! Thưa bà! ", người đàn bà gọi với theo. Khi người đàn bà cố gắng đứng dậy, tôi van nài Farid trả cho bà ta số tiền bà ta yêu cầu. "Người đàn bà đáng thương. Trong một ngày như ngày hôm nay thì điều đó thật đáng xấu hổ".
Mẹ Farid dừng lại ngay khi gặp người bán hàng đầu tiên, một phụ nữ thiếu chiếc răng cửa và bà chọn khá nhiều cam, quýt, lá cọ. Bà mặc cả một lát rồi sau đó đưa bà ta một khoản tiền và bỏ đi. "Thưa bà! Thưa bà! ", người đàn bà gọi với theo. Khi người đàn bà cố gắng đứng dậy, tôi van nài Farid trả cho bà ta số tiền bà ta yêu cầu. "Người đàn bà đáng thương. Trong một ngày như ngày hôm nay thì điều đó thật đáng xấu hổ".
Chúng tôi rảo bước để đuổi kịp mẹ
Farid. Bà trông rất trang nhã dù rằng hơi béo. Chúng tôi nhảy qua bùn, đất và
các nấm mồ như những con linh dương. Bà xách những thứ bà mới mua, để lại những
chiếc làn cho Farid, bố anh và cô em gái. Hôm nay trông cô ta đặc biệt ủ ê. Tôi
thấy mình đang đi bên bà. Bà nhìn đồng hồ và hỏi liệu tôi có nghĩ mặt trời sắp
mọc không, sau đó, hạ thấp giọng bà giải thích, "Mẹ muốn đến câu lạc bộ.
Bơi một chút rồi nằm phơi nắng".
Tôi cười lại với bà. Xung quanh tiếng động đinh tai nhức óc. Có tiếng loảng xoảng của soong chảo và tiếng bếp lửa reo nơi những người phụ nữ đang nấu nướng trên lối đi chật hẹp và ở khoảng trống giữa các nhà mồ. Tiếng la hét inh tai của bọn trẻ con hoà lẫn với giọng những người đọc kinh Côran đang đi từ ngôi mộ này tới ngôi mộ khác, vào rồi ra khỏi nhà mồ. Họ cố cao giọng một cách vô ích và đám thính giả của họ – các gia đình muốn đọc kinh riêng cho những người thân của mình – phải chú ý hết sức mới hiểu họ nói gì. Phần lớn những người đọc kinh hăng hái nhất là những người đã đứng tuổi, dù rằng cũng có những người trẻ tuổi đọc kinh thuê đang đứng tựa lưng vào hòn đá nhà mồ trông hết sức rầu rĩ. Tôi dõi theo mẹ Farid đi từ người này tới người khác. Tất cả bọn họ đều hứa trước sau sẽ nhờ người trông coi nghĩa địa đưa đến chỗ bà. Khi một người trong số những người trẻ hơn đến gần bà đề nghị được đọc, bà làm ra vẻ như không thấy anh ta. Giận dữ, Farid hỏi tại sao bà lại làm mất mặt người ta như vậy thì bà trả lời: "Những người đứng tuổi trong con mắt của Đức Chúa có giá trị hơn".
Có lẽ bà định nói rằng những người trẻ tuổi không mang chiếc mặt nạ sầu khổ bằng những người đàn ông đứng tuổi.
Tôi cười lại với bà. Xung quanh tiếng động đinh tai nhức óc. Có tiếng loảng xoảng của soong chảo và tiếng bếp lửa reo nơi những người phụ nữ đang nấu nướng trên lối đi chật hẹp và ở khoảng trống giữa các nhà mồ. Tiếng la hét inh tai của bọn trẻ con hoà lẫn với giọng những người đọc kinh Côran đang đi từ ngôi mộ này tới ngôi mộ khác, vào rồi ra khỏi nhà mồ. Họ cố cao giọng một cách vô ích và đám thính giả của họ – các gia đình muốn đọc kinh riêng cho những người thân của mình – phải chú ý hết sức mới hiểu họ nói gì. Phần lớn những người đọc kinh hăng hái nhất là những người đã đứng tuổi, dù rằng cũng có những người trẻ tuổi đọc kinh thuê đang đứng tựa lưng vào hòn đá nhà mồ trông hết sức rầu rĩ. Tôi dõi theo mẹ Farid đi từ người này tới người khác. Tất cả bọn họ đều hứa trước sau sẽ nhờ người trông coi nghĩa địa đưa đến chỗ bà. Khi một người trong số những người trẻ hơn đến gần bà đề nghị được đọc, bà làm ra vẻ như không thấy anh ta. Giận dữ, Farid hỏi tại sao bà lại làm mất mặt người ta như vậy thì bà trả lời: "Những người đứng tuổi trong con mắt của Đức Chúa có giá trị hơn".
Có lẽ bà định nói rằng những người trẻ tuổi không mang chiếc mặt nạ sầu khổ bằng những người đàn ông đứng tuổi.
Chúng tôi đi vào mảnh sân có vườn nhỏ
bao quanh, nơi có những ngôi mộ bên trên đặt những phiến đá trang trí màu hồng.
Farid nói đây là mộ cụ anh và hai anh em trai của ông, họ cũng yêu cầu được
chôn ở khu vườn này. Khu vườn trông xanh tốt và ẩm ướt như vừa được tưới nước
chưa lâu. Sau đó chúng tôi đi qua sân vào ngôi nhà mồ chính và thấy ở trong đó
đầy đủ các thành viên của gia đình, một người đọc kinh Côran cùng những đĩa quả
chà làn, dưa chuột và quýt. Bản thân phần mộ được trang trí bằng lá cọ.
"Tại sao chúng ta lại ngồi đây, ngay bên cạnh ngôi mộ?". Tôi ngạc
nhiên hỏi.
Tôi nhìn thấy sự thất vọng, sau đó là
sự giận dữ trên khuôn mặt mẹ vị hôn phu của tôi mà bà không thể giấu được.
"Nhà mình có lẽ đã ở đây cả đêm" là lời đầu tiên bà nói với đám đông
đang tụ tập. Chẳng ai trả lời bà nhưng trước sự sững sờ của bà họ đứng dậy chào
chúng tôi không chú ý gì tiếng đọc kinh Côran: ba cô về đằng nội, ông nội,
chồng của hai cô và đám con cái. Họ dành chỗ cho chúng tôi trên chiếc ghế gỗ đã
bị biến dạng theo thời gian và sự quên lãng. Tất cả chúng tôi đều ngồi xuống
chỉ trừ mẹ Farid. Bà bắt đầu trải thêm lá cọ lên phần mộ cho tới khi ngôi mộ
gần như bị che kín hết. Sau đó bà lấy ra bánh nướng, quả chà là, dưa chuột,
quýt và cốc uống chè. Bà đặt vài chiếc bánh nướng và mấy quả chà là vào một
chiếc túi, đi về phía người đọc kinh Côran, ấn nó vào tay ông ta. Ông ta dừng
lại giữa câu đọc để lầm bầm câu cảm ơn và đưa chiếc túi cho cậu bé ngồi dưới
chân ông lúc này đang đếm những tờ tiền giấy và những đồng xu trước khi cho nó vào
túi.
Bất chợt mẹ Farid hỏi ông ta mỗi gia
đình ông lấy bao nhiêu tiền. "Phụ thuộc vào chuyện họ muốn đọc trong bao
lâu", cậu bé trả lời vẻ ranh mãnh.
"Bao nhiêu", bà cứ khăng
khăng hỏi. "Ví dụ như năm ngoái ấy?", "Năm ngoái là năm
ngoái", cậu bé trả lời. Sau đó, nhìn vào trong túi cậu đọc số tiền làm mẹ
Farid kinh ngạc. "Bằng một lần đi khám bác sỹ", bà nhận xét. Tôi gặp
ánh mắt vị hôn phu của tôi và chúng tôi gần như cười thành tiếng.
Có tiếng lao xao ở bên ngoài rồi sau
đó người trông nghĩa địa xuất hiện và theo sau ông là một người đọc kinh. Khi
nghe thấy tiếng đọc kinh họ cố gắng rút lui nhưng mẹ Farid nắm lấy tay ông ta
kéo vào. Dù gia đình tỏ vẻ không đồng tình bà vẫn kéo ông tới chỗ con gái đang
ngồi trong khi ông lẩm bẩm, "Tôi không được phép xâm phạm chỗ người
khác".
Bà sốt ruột trả lời, "Thì cứ nghỉ
ngơi đi. Ông ta sẽ có phần của ông ta và ông sẽ có phần của ông".
Ông ta đành nghe theo và ngồi nghe
đồng nghiệp của mình, gật gù theo điệu kinh trong khi khuôn mặt các cô lộ vẻ
ngao ngán. Một người thở dài và người khác quay mặt đi. Mẹ Farid tuyên bố
"Không phải ngày nào cũng là ngày hội và chúng tôi muốn những người thân
của chúng tôi được lên thiên đàng".
Sau đó bà đến chỗ người trông coi
nghĩa địa, cảm ơn ông và dúi một ít tiền vào tay ông, nói ra số tiền bằng giọng
một người có thể nghe thấy. "Tôi hy vọng nơi này sẽ không được mở ra ngay
sau khi chúng tôi đi khỏi đây", bà lạnh lùng yêu cầu.
"Thế tôi mang súng để làm
gì?", người trông coi nghĩa địa đối đáp lại.
"Không! Ông biết tôi muốn nói gì
rồi đấy", bà nói. "Chúng tôi nghe nói người trông coi nghĩa địa cũ để
nhà mồ của chúng tôi cứ như nó là khách sạn ấy".
"Đấy chính là lý do vì sao ông ta
là người trông coi nghĩa địa cũ. Bà biết rằng tôi thậm chí không cho bọn trẻ
con đi ngang qua đây".
Tôi nghĩ mình sắp được giải thoát rồi
khi từ ngoài đưa vào mùi thịt nướng khiến mũi tôi rung rung. Người đọc kinh mù
đứng lên và cậu bé dắt ông đi trong lúc người mới đến bắt đầu đọc. Tôi nhìn
xung quanh phòng, nhìn những khuôn mặt, đặc biệt là khuôn mặt các cô. Họ chuyển
cái nhìn của họ từ tôi sang mẹ Farid, sang em gái anh và lại quay lại. Khi mắt
chúng tôi gặp nhau chúng tôi cười với nhau cứ như họ biết tôi đang nghĩ gì và
đồng tình với tôi: "Chuyện mẹ Farid khó tính không có nghĩa lý gì hết và
tôi thì chẳng quan hệ gì đến bà cả. Tất cả mọi người trong gia đình Farid đều
yêu anh cho dù anh luôn làm theo những điều mẹ nói".
Người đọc kinh dừng lại để lấy giọng
và ngay lập tức một cô quay lại phía tôi nói cô không ngờ tôi xinh đẹp đến vậy
dù đã được nghe tả. Cô còn nói thêm chỉ vì bị ốm nên cô mới không có mặt ở buổi
lễ đính hôn của chúng tôi. Cô khác thì hỏi chúng tôi đã tìm được nhà chưa và
chúng tôi muốn nhà rộng bao nhiêu. Đầu tiên tôi ngây thơ trả lời những câu hỏi
này nhưng từ những biểu hiện của họ và từ cách Farid cố gắng tìm mắt tôi, tôi
cảm thấy rằng tôi phải thận trọng khi nói về những vấn đề liên quan tới mẹ
Farid.
Hiển nhiên bà ngắt ngang lời chúng tôi
và nói rằng chẳng có gì phải vội vã trong việc thuê căn hộ, nhà bà có nhiều
phòng to và Farid có quyền ngang bà trong những vấn đề liên quan tới ngôi nhà.
Khi tôi trả lời rằng chúng tôi dự định
một đám cưới đơn giản, chỉ trong gia đình thì mẹ Farid, cứ như không nghe thấy
tôi, nói rằng đám cưới sẽ được tổ chức tại một trong các khách sạn lớn. Khi tôi
nói với họ rằng váy cưới của tôi là đồ đi thuê và người ta đã mặc chiếc váy đó
lần đầu tiên vào những năm 20 thì bà gần như không giấu được sự giận dữ. Chính
khi đó là lúc tôi nhận thấy tình trạng chiến tranh giữa mẹ Farid và các cô và
thấy tiếc nuối là đã mở miệng. Từ những câu hỏi không ngớt của họ và cách họ
nhìn nhau sau mỗi câu trả lời của tôi, tôi có thể nói rằng họ sử dụng tôi để
tấn công bà vào nơi dễ bị tổn thương nhất. Bà phản đối, gần như hét lên,
"Lạy Chúa! Cô sẽ mặc chiếc váy cưới cũ trong đám cưới của cô a? Chuyện này
thì không thể!".
"Váy trắng à?", một cô trả
lời, càng kích động mẹ Farid hơn.
"Trắng hay đen thì khác gì
nhau?", bà hét lên. "Không thể có chuyện đó. Marisa sẽ may áo cưới.
Tôi đã hứa với cô ấy vậy. Cô ấy sẽ rất buồn nếu tôi không đặt nữa".
"Buồn á!", một cô nhận xét
và cười. "Marisa thừa việc. Cô ấy sẽ vui sướng thì có".
"Tôi biết các cô ghen tỵ là
Marisa sẽ may áo cưới", mẹ Farid gào lại.
Trong một giây tôi quên mình đang ở
đâu. Những bức tường xám xịt và những chiếc ghế của những người đến viếng chắn
bia mộ và những chiếc lá cọ. Có thể nghĩ chúng tôi đang ngồi trong một phòng
khách. Bố Farid và chồng cô thứ ba ngắt ngang cuộc tranh cãi, đến đứng sau lưng
ghế vợ họ. "Thế còn quần áo thì sao? Có phải em định mang nó cho người
trông nghĩa địa không?", bố Farid cố gắng chuyển đề tài.
Vợ ông thở dài, chán nản. "Em
quên tiệt mất", bà trả lời. "Hãy hy vọng rằng em sẽ được tha
tội!". Sau đó bà thì thầm gì đó vào tai chồng. Chẳng thấy ai nói gì bà
hỏi: "Có ai muốn uống chè không?" Bà đi về phía cuối phòng nơi có
chiếc bếp mà trước đó tôi không để ý. Vừa rót trà bà vừa hỏi, "Thế mọi
người nghĩ thế nào về chuyện xây thêm lên nhà mộ? Một phòng nữa chẳng hạn, một
cái bếp nhỏ, một phòng tắm?".
Không ai trả lời. Họ đang bận mải với
những câu chuyện của riêng họ. Bà nhắc lại, "Chúng ta cần phải mở mang nhà
mộ. Ông Farid đồng ý rồi. Còn các cô thế nào?".
"Mở mang!", một cô chế giễu.
"Nghe chị nói người ta sẽ tưởng nhà mộ là nhà ở đấy!".
"Điều tôi
định nói là", mẹ Farid chữa, "là chúng ta phải mua một khu hầm mộ bỏ
hoang khác".
Một cô khác nối lời ngay: "Và để cho người thân chúng ta nằm cùng những người lạ? Có hoạ là điên!".
Một cô khác nối lời ngay: "Và để cho người thân chúng ta nằm cùng những người lạ? Có hoạ là điên!".
"Tôi định
nói là chúng ta phải mua một khoảnh đất khác, dù nó có xa chút ít".
Những giọng nói cao lên rồi trầm xuống. Các anh chị em họ Farid thì thầm với nhau vẻ khinh bỉ. Farid mang lại cho tôi một cốc trà. Trong lúc đó mẹ anh tiếp tục càu nhàu hỏi: "Mọi người nghĩ thế nào?".
Những giọng nói cao lên rồi trầm xuống. Các anh chị em họ Farid thì thầm với nhau vẻ khinh bỉ. Farid mang lại cho tôi một cốc trà. Trong lúc đó mẹ anh tiếp tục càu nhàu hỏi: "Mọi người nghĩ thế nào?".
"Thế nào
à?", cuối cùng thì một cô cũng trả lời, "Chẳng ai có tiền bỏ ra cho
nhà mộ và những chuyện tương tự cả, đó là điều chúng tôi nói".
Mẹ Farid thở ra
chiến thắng: "Nhờ ơn Chúa, Farid có một công việc rất tốt, và...".
Tôi bối rối nhìn
Farid, anh đang gật đầu giống như khi người ta cần sự giúp đỡ. Anh nói vẻ
ngượng ngùng, "Tại sao mẹ lại phải nói chuyện này ra thế?".
Chắc qua câu nói
này mẹ anh phải cảm thấy anh đang về phe với các cô chống lại bà nhưng bà tiếp
tục, "Mẹ định nói là Chúa cho con đủ tiền để mua một khu nhà mồ mới".
Bà dường như đang
thu thập sức lực từ sự im lặng của anh. Lúc này trông bà như con mèo khi đã
đuổi được con chuột vào góc. Nhưng cái nhìn khinh bỉ của những người đàn bà
khác làm biến mất vẻ chiến thắng của bà. "Chúng tôi biết chuyện chị
rồi", họ có vẻ như nói vậy. "Chị muốn khoe với bạn bè chị rằng chị
mới có một khu nhà mộ mới. Một cái biệt thự hẳn hoi! Một biệt thự ba tầng cầu
thang tuyệt đẹp và cổng sắt".
"Các chị có
bao giờ thấy ai đi thăm mộ gia đình và gần như ngồi lên trên mộ không?",
mẹ Farid hét lên. "Chúng ta phải có những phòng riêng để ngồi".
"Chúng ta
thường ngồi ở chính nơi mà chị cho người trông nghĩa địa dùng", một cô
ngắt lời bà.
"Ít nhất thì cũng chỉ có ông ta và vợ", mẹ Farid phản đối. "Rõ ràng như thế tốt hơn là cả một gia đình nào đó vào đây, bọn trẻ con thì trèo lên bia mộ như khỉ và sau đó không thể đuổi chúng đi được?".
"Ít nhất thì cũng chỉ có ông ta và vợ", mẹ Farid phản đối. "Rõ ràng như thế tốt hơn là cả một gia đình nào đó vào đây, bọn trẻ con thì trèo lên bia mộ như khỉ và sau đó không thể đuổi chúng đi được?".
"Thế có gì
không phải trong việc chôn ngoài sân?", một cô tiếp tục bằng giọng cao
hơn. "Chị không cần phải ở trong phòng".
"Cụ chị
thích được chôn ngoài vườn, đó là chuyện của cụ", mẹ Farid hét lên,
"Tôi và gia đình của tôi muốn được chôn ở trong hầm mộ!".
Bằng giọng thì
thầm như tiết lộ bí mật, bố Farid nói, "Nghe tôi nói đây! Giá đất đang
lên. Người ta còn định sống trong những ngôi nhà mồ như thế này. Và dù sao đi
nữa, có gì không phải trong việc gia đình ta có được cái tốt nhất?".
"Em biết
vậy", em ông trả lời. "Nhưng có hợp lý không khi anh trả tiền còn
chúng em thì đứng khoanh tay? Anh biết đấy, bọn trẻ đang đi học, phải trả tiền
hàng tháng và còn bao thứ khác nữa...".
"Tôi thì thế
nào cũng được", chồng cô nói.
Sự chen ngang của ông dường như kích động mẹ Farid và bà đập lại, "Dù sao thì vợ ông cũng sẽ không được chôn ở đây đâu. Cô ấy sẽ đi cùng gia đình ông".
Sự chen ngang của ông dường như kích động mẹ Farid và bà đập lại, "Dù sao thì vợ ông cũng sẽ không được chôn ở đây đâu. Cô ấy sẽ đi cùng gia đình ông".
Vợ ông tảng lờ bỏ
qua bà và nói, "Nhìn xem! Nhìn xung quanh xem! Ngôi nhà mồ này khá to. Chị
không thể gọi nó là nhỏ được!".
Nhưng bà trả lời
ngay bằng một câu làm tôi choáng giống như bị một cú đấm. Bởi tôi không thể tin
được một gia đình lại có thể gào thét, cãi nhau bên trên nấm mộ thanh bình giữa
lúc cần phải nghiêm túc. Tôi nói với bản thân có lẽ đây là một câu chuyện đùa,
và dù sao, nó cũng chẳng liên quan gì đến tôi, thậm chí cả khi Farid trả tiền.
Đứng giữa phòng,
mẹ Farid tuyên bố, "Không! Không to như chị tưởng đâu. Tôi ở đây, đây là
chỗ cho chồng tôi, giờ đây Farid đang chuẩn bị thành hai, rồi sau đó là con
nó".
Những lời của bà
làm tôi hoảng sợ. Cái chết đã không còn xa như trước đây nữa. Tôi chưa bao giờ
nghĩ về nó. Giống như một đứa trẻ con, tôi nghĩ nó là cái gì đó không xảy ra
với mình. Cố gắng đùa, tôi nói, "Liệu chúng con có phải lo cho cái chết
không khi mà chúng con còn chưa cưới?".
"Chúng ta
đang nói rằng giá cả cứ tăng", bố Farid cắt ngang, bám vào lý do cũ.
Tôi biết mọi ánh mắt đang dồn vào tôi, đặc biệt là các cô, van xin tôi cứu họ khỏi nanh vuốt mẹ Farid. Nhưng tôi không có sức lực dù là để cứu chính bản thân mình và tôi thả mình vào ý nghĩ kinh hoàng rằng một ngày nào đó tôi sẽ nằm đây, trong căn phòng này, dưới một cái bia mộ giống thế này, một cái khác bên cạnh cho Farid và mỗi cái khác cho những đứa con của chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều sẽ kết thúc ở đây và cháu chắt chúng tôi sẽ ngồi như thế này, uống chè, bàn cãi, ăn thanh trà.
Tôi biết mọi ánh mắt đang dồn vào tôi, đặc biệt là các cô, van xin tôi cứu họ khỏi nanh vuốt mẹ Farid. Nhưng tôi không có sức lực dù là để cứu chính bản thân mình và tôi thả mình vào ý nghĩ kinh hoàng rằng một ngày nào đó tôi sẽ nằm đây, trong căn phòng này, dưới một cái bia mộ giống thế này, một cái khác bên cạnh cho Farid và mỗi cái khác cho những đứa con của chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều sẽ kết thúc ở đây và cháu chắt chúng tôi sẽ ngồi như thế này, uống chè, bàn cãi, ăn thanh trà.
Đám đàn ông cao
giọng lên, hòa cùng giọng với những người phụ nữ và họ đưa tôi trở lại thực
tại. Farid cứu tôi, cầm tay tôi trong đôi tay mềm mại của anh, và tôi lẩm bẩm,
"Thật là rồ dại khi nghĩ về cái chết vào lúc này!".
Tôi không biết
làm sao mẹ Farid có thể nghe được điều tôi nói; tôi hầu như không nghe thấy,
nhưng bà nói ngay, "Cuộc sống chúng ta nằm trong tay Chúa".
Điều này làm tôi
nổi giận, không nhận thức được điều mình nói, giống như đứa trẻ phản đối chỉ để
phản đối tôi nói lại, "Cháu không muốn bị chôn ở đây!".
"Cháu không
có sự lựa chọn nào khác", bà trả lời. "Khi cháu trở thành thành viên
của gia đình, đó là điều cháu phải làm! Thậm chí cả gia đình cháu cũng sẽ không
đồng ý chôn cháu cùng với họ đâu".
Tôi cảm thấy như
bà đang chuẩn bị đắp đất lên người tôi, "Không!", tôi thét lên.
"Không!" Tôi đứng bật dậy và chạy ra cửa. Mẹ Farid không hề phản ứng
gì thậm chí cả khi Farid giữ tôi và nói vẻ trách móc. "Bây giờ thì mẹ thấy
sung sướng chứ?".
"Con trai
yêu quý, cô ấy phải hiểu rằng ai sống cùng chúng ta thì cũng phải chết cùng
chúng ta", bà nói.
Tôi giật ra và
chạy. Anh chạy theo tôi. Ra ngoài, đến khu đất trống giữa nghĩa địa tôi dừng
lại thở và dựa vào một bia mộ để buộc chặt lại đôi xăng đan. Bọn trẻ con chơi
bóng ở đây, không để ý đến lời quở trách của mẹ chúng và những người phụ nữ
đứng tuổi đang ngồi nghỉ sau công cuộc nấu ăn. "Những người chết phải điên
lên vì bị kích động ở dưới này".
Cuối cùng thì tôi
cũng trấn tĩnh lại, có thể là do hình ảnh cuộc sống thường ngày này, hay bóng
lướt qua của một con chim thả mình bay vút vào khoảng không đẹp đẽ làm lãng
quên hết những gì đang xảy ra dưới này. Chúng tôi dừng lại bên chiếc xe. Tôi
biết chúng tôi sẽ phải chờ gia đình anh. Tôi cảm thấy muốn được giải thoát khỏi
tay anh đang nắm chặt tay tôi. Tôi quay mặt đi, ngắm những vệt vôi đang khô,
chiếc bát nằm trên một ngôi mộ, chiếc nồi ở trên một ngôi mộ khác, cứ như đó là
cái bàn vậy, và những chủ nhân của nó – những nạn nhân của việc khủng hoảng nhà
ở đi đâu đó, bận rộn với công việc của họ. Tôi nhìn những người ngồi xổm trong
những ngôi nhà mồ bị bỏ hoang, hay họ thuê với giá cứ tăng mãi, hay đơn giản
những ngôi nhà mồ thuộc sở hữu gia đình, và họ biến đổi nó cho thích hợp với
cuộc sống của họ. Tôi nhìn thấy tivi, đài. Thế mà mẹ Farid muốn một chỗ to hơn
cho ngôi mộ của bà.
Khi tôi nhìn thấy
mẹ Farid, bố anh và cô em gái hiện ra ở phía xa, tôi cảm thấy như nghẹt thở.
Vậy ra chúng ta là một gia đình, sống cùng nhau, chết cùng nhau?
Chắc bố Farid đã
nói với vợ giữ im lặng vì bà không nói một lời nào từ khi bà bước vào xe. Em
gái anh cố gắng gây hòa bình với tôi, và kể cho tôi nghe về một người bạn của
cô ta là nhà xã hội học đang tiến hành một nghiên cứu về những người sống bên
cạnh người chết. Cô nói về chuyện những người phụ nữ vui mừng như thế nào khi
có một đứa trẻ sinh ra và họ bất chợt trở nên câm lặng khi phát hiện thấy một
đám ma đang đến gần. Tiếng ầm ĩ vui vẻ của họ biến thành tiếng kêu thảm thiết
trong khi những người đàn ông vội vã đi tìm xem có tiếng nhạc từ ngôi nhà mồ
nào không, hay nơi nào đang bật đài để họ có thể tắt nó đi. Ngay khi tang lễ
xong xuôi, cuộc sống lại trở về bình thường.
Nhưng tôi vẫn im
lặng. Bị bao vây giữa những giọng nói ầm ĩ của họ, tôi cảm thấy mình giống như
con kiến tôi phát hiện thấy ở nền ngôi nhà mồ. Nó đi lang thang không cố định,
không biết rằng nó có thể bị giẫm chết bất cứ lúc nào. Tôi hiểu rằng tôi đã
thay đổi ý định về chuyện hôn nhân, và tôi muốn ra khỏi xe ngay bây giờ, trước
khi bị mẹ Farid làm cho ngạt thở. Tôi nhìn thấy hình ảnh các cô giống như ba mụ
phù thủy chuẩn bị trao tất cả chúng tôi cho quỷ.
Tôi nghĩ tôi sẽ
nói với Farid rằng lý do làm tôi thay đổi quyết định về chuyện cưới xin chẳng
liên quan gì tới nhà mộ hay nơi tôi sẽ bị chôn. Ngược lại, tôi thích những
chuyện nổi loạn, và bản thân nghĩa địa cũng giống như một nơi lễ hội. Dù sao,
tôi cũng không muốn cô đơn khi tôi còn đang sống.
Sau đó tôi lại
nghĩ lại về câu cuối cùng này. Tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cảnh gia đình trong
hầm mộ, và những giọng nói của họ vẫn còn văng vẳng bên tai tôi. Tôi quyết định
thử yêu thích việc được đơn độc một mình, dù khi còn sống hay khi đã chết.
ĐẶNG TUYẾT ANH dịch
HANAN AL SHAYKH (nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)ĐẶNG TUYẾT ANH dịch
Đồng thời, đã in trong Tuyển tập 29 truyện ngắn nữ thế giới, người dịch Đặng Tuyết Anh, Nhà xuất bản Lao động, 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét